Phương pháp dạy học - Sáng kiến kinh nghiệm

Một số phương pháp dạy học truyền thống, đổi mới phương pháp dạy học và các sáng kiến kinh nghiệm dạy học

Tư liệu dạy học hóa học - Bồi dưỡng học sinh

Một số tài liệu bồi dưỡng giáo viên, bồi dưỡng học sinh giỏi, nâng kém, luyện thi đại học.

Hóa học trong thế giới diệu kỳ

Hóa học phục vụ đời sống, tìm hiểu lợi ích, các thí nghiệm vui, lịch sử tìm ra nguyên tố, các nhà hóa học, ta sẽ yêu thích môn hóa học hơn.

Thí nghiệm hóa học - mô phỏng trong hóa học

Hóa học là một môn khoa học thực nghiệm, việc học tập và nghiên cứu không thể thiếu nhưng thí nghiệm mẫu, các mô phỏng thí nghiệm, chứng minh nguyên lý, định luật trong hóa học.

Giáo trình, bài giảng phục vụ sinh viên trường đại học cao đẳng

Các tài liệu, bài giảng của các giảng viên ở các trường đại học. Các sách tham khảo bằng Tiếng Việt và Tiếng Anh đầy đủ các chuyên ngành

Chào mừng bạn ghé thăm trang

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

4 mẹo bảo quản vitamin C trong rau, quả

Trong cơ thể, vitamin C giữ vai trò tương đối đa dạng, chúng kìm hãm sự lão hóa của tế bào, kích thích sự bảo vệ các mô cũng như quá trình liền sẹo nhanh, ngăn ngừa ung thư, tăng cường khả năng chống nhiễm khuẩn và chống lại chứng thiếu máu.

Vitamin C được cung cấp chủ yếu qua rau, quả nhưng nếu không biết sử dụng, dễ dẫn đến thiếu gây một số biểu hiện như xuất huyết dưới da, mệt mỏi, căng thẳng, vết thương không lành, hư răng, bội nhiễm...

Cách bảo quản vitamin C trong rau, quả:

- Tốt nhất là sử dụng ngay sau khi hái vì lúc này rau, quả có hàm lượng vitamin cao nhất.

- Nếu mua ở chợ cần chọn loại rau, quả tươi, không dập nát và nên sử dụng trong ngày. Khi để lâu cần cho rau, quả bảo quản trong tủ lạnh.

- Khi nấu nướng cần chú ý: không nên cắt nhỏ rau hay vò nát khi rửa, không nên cho ngay rau vào nước chưa sôi. Không nên mở vung khi nấu canh và không nên để nhiều giờ sau khi nấu mới ăn.

- Đối với hoa quả cần chú ý: không nên ăn một lúc lượng lớn vitamin C mà nên sử dụng lượng vừa phải và đều đặn. Chẳng hạn không nên ăn một lúc 3 - 4 quả cam rồi thôi mà nên ăn đều đặn 1 quả sau mỗi bữa ăn vì vitamin C sẽ không bị thừa và đào thải qua nước tiểu.

Theo SKĐS

Nên và không nên dùng muối

Không nên phủ nhận hoàn toàn giá trị của muối bởi muối có tác dụng nhất định đối với cơ thể. Vấn đề là cần hiểu đúng để biến muối thành thực phẩm hữu ích cho sức khỏe.

Ăn bao nhiêu muối mỗi ngày là vừa? Đó là câu hỏi được nhiều người đặt ra và tìm hiểu. Tác giả Bennedict (Mỹ) đã nghiên cứu trên một người nhịn ăn thì thấy rằng khi cơ thể không nhận được thêm muối từ ngoài vào, nó sẽ có khuynh hướng giữ muối lại trong cơ thể nhiều hơn bằng cách hạn chế lượng muối thải ra ngoài qua nước tiểu, phân… Tác giả Bunge đã làm thí nghiệm trên bản thân mình và thấy rằng con người muốn sống không cần ăn thêm muối.

Muối ăn chính là natri clorua (NaCl) mà thành phần Na là một chất điện giải có vai trò rất quan trọng trong cơ thể sống. Trong thực phẩm thiên nhiên hằng ngày dùng để nấu ăn đã có sẵn 3-5gr muối. Nguồn Na từ thức ăn động vật nhiều hơn trong thức ăn thực vật. Nhưng thường chúng ta phải nêm thêm muối thì mới có thể ăn đủ được lượng thực phẩm đáp ứng nhu cầu năng lượng và dưỡng chất cho cơ thể hằng ngày. Thường khẩu phần ăn hằng ngày của chúng ta nhiều muối hơn nhu cầu cần thiết của cơ thể.

Theo khuyến cáo của Viện dinh dưỡng, mỗi ngày một người khỏe mạnh bình thường chỉ nên ăn từ 6-10gr muối (khoảng dưới 2 muỗng cà phê muối một ngày). Tổng lượng muối nhập vào cơ thể là từ thực phẩm ăn vào, cá ướp muối, dưa cà muối, các loại mắm, đồ hộp, chả lụa, xúc xích, món canh xào kho mặn, mắm muối chấm trên bàn ăn, nước uống có muối...

Những người làm công việc nặng, thời tiết nóng bức, làm việc chỗ nóng, mất nhiều muối qua mồ hôi thì cần được bổ sung trở lại lượng muối này qua thức ăn (nêm canh, xào, chấm thêm muối hay nước chấm trên bàn ăn hoặc ăn cà muối, dưa muối, cá muối).

Rất hiếm khi gặp tình trạng bị thiếu muối trong khẩu phần ăn hằng ngày của người khỏe mạnh bình thường. Tình trạng Na huyết thấp chỉ xảy ra ở những người bị mất Na do tiêu chảy, nôn, ra quá nhiều mồ hôi, hoặc bị bệnh thận. Một nguy cơ thường gặp là tiêu thụ quá nhiều muối. Việc ăn mặn nhiều muối thường xuyên lúc còn trẻ đã có bằng chứng liên quan tới bệnh tăng huyết áp (theo Mitchell năm 1989). Lượng muối ăn dư thừa trong cơ thể sẽ dần dần được thải qua thận (Na niệu tăng) và thận phải tăng hoạt động liên tục, trong khi Na còn ở trong cơ thể sẽ giữ nước làm mệt tim phải vận chuyển một khối lượng máu tăng. Nếu thận kém không lọc máu để loại bớt Na được, nếu tim yếu không chuyển được máu về thận… thì cơ thể sẽ giữ nước lại, gây phù nhẹ ở mu bàn chân, ở mặt rồi ở bụng. Vì vậy đối với người bệnh tim, bệnh thận cần hạn chế ăn nhiều muối.

Trẻ em có nên dùng muối?

Đối với trẻ em, nhất là ở những trẻ nhỏ sinh non tháng, chức năng thận còn yếu kém, lượng muối nhập vào cơ thể (qua sữa, dịch truyền nếu có) cần hạn chế ở mức thấp nhất. Ưu tiên cho trẻ bú sữa mẹ vì lượng muối trong sữa mẹ thấp hơn hẳn so với sữa bò. Thành phần chất khoáng thấp là một ưu điểm khi lựa chọn những loại sữa non tháng và sữa công thức 1 dành cho trẻ dưới 6 tháng.

Bước vào tuổi ăn dặm (sau 6 tháng tuổi), nên hạn chế nêm nếm muối, nước mắm vào thức ăn dặm của trẻ. Cảm giác vị giác của trẻ em còn tinh nhạy hơn so với người lớn, vì vậy khi cần nêm thức ăn cho trẻ phải nêm nhạt hơn “lưỡi” của người lớn, người lớn thấy vừa miệng là có thể đã quá mặn so với trẻ. Mì gói (mì tôm) ăn liền là một trong những món ăn khoái khẩu của trẻ em. Tuy nhiên, lượng muối trong gói bột nêm rất cao (khoảng 3gr/gói). Vì vậy chỉ nên cho khoảng ½ gói bột nêm vào tô mì là vừa. Đi cùng với muối là nước để điều hòa nội môi cơ thể.

Với trẻ em, cần khuyến khích cho trẻ uống đủ nước lọc hằng ngày (sao cho nước tiểu thải ra có màu vàng nhạt là tốt, nước tiểu màu vàng sậm là thiếu nước) để có thể thải bớt lượng muối dư thừa ra nếu có. Như vậy, một điều cần nhớ là nên ăn nhạt nhất nếu có thể.

Nhu cầu natri (tối thiểu) khuyến nghị theo độ tuổi (RDA) như sau:

Trẻ em dưới 6 tháng

1.200 mg/ngày

Trẻ 6-11 tháng

2.000 mg/ngày

Trẻ 1 tuổi

2.205 mg/ngày

Trẻ 2-5 tuổi

3.000 mg/ngày

Trẻ 6-9 tuổi

4.000 mg/ngày

Trên 10 tuổi

5.000 mg ngày

Theo TN

4 dấu hiệu nhận biết thịt siêu nạc có độc chất

     Trước thông tin thịt lợn nhiễm hóa chất có khả năng gây ung thư, việc nhiều người tiêu dùng tỏ ra thận trọng với mặt hàng này là điều cần thiết.

     Tuy vậy, người tiêu dùng cũng không nên nhầm lẫn và đánh đồng thịt lợn giống siêu nạc và thịt lợn siêu nạc do hóa chất. Thịt lợn nạc trên thị trường hiện nay chủ yếu là do giống lợn siêu nạc và lợn lai.

     Các giống này được nhập từ nước ngoài, đã được các cơ quan có chức năng về chăn nuôi nghiên cứu và chấp nhận được chăn nuôi và tiêu thụ ở Việt Nam. Các loại thịt lợn này cũng có tỷ lệ nạc cao, thậm chí mỡ dưới lớp bì không có. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và những người chăn nuôi chân chính, tránh những hoang mang, lo lắng không đáng có, các nhà quản lý cần kiểm soát gắt gao hơn nữa mặt hàng này từ khâu sản xuất đến tiêu thụ.

     Thịt lợn sạch khối thịt rắn chắc, có độ đàn hồi cao, các thớ thịt đều, khi chế biến có mùi thơm, không bị ra nước, thậm chí còn nở hơn. Lợn nuôi bằng thức ăn chứa hóa chất, da có độ căng khác thường, trương mỏng, có cảm giác như ứ nước bên trong, trên da còn xuất hiện đốm đỏ. Lợn siêu nạc có phần nạc gần sát với da, có nhiều cục nạc u lên, mỡ ít, chỉ mỏng khoảng 0,4 cm, thịt có màu đỏ như thịt bò, khi nấu nướng bị mất chất béo.

     Bên cạnh đó, đối với thịt lợn đã bị ôi, một số người bán hàng thường tẩm ướp hàn the, muối diêm... để đánh lừa cảm quan người tiêu dùng là thịt vẫn còn tươi. Do đó, khi mua thịt người tiêu dùng cần lưu ý miếng thịt có tẩm hàn the rất tươi, cầm thấy cứng nhưng khô, thớ thịt săn, không dính...

     Khi cắt sâu vào bên trong, thịt khá nhũn, chảy dịch, có mùi, có độ đàn hồi kém. Trong trường hợp người bán còn pha phẩm màu với máu lợn để thoa vào miếng thịt cho thịt đẹp như thịt tươi. Loại thịt này khi rửa sẽ chuyển màu nhợt và có mùi tanh rất khó chịu. Thịt, mỡ có màu vàng cũng không nên mua”.

     4 đặc điểm nhận biết thịt siêu nạc có hóa chất

     1. Xem lớp mỡ bên dưới da miếng thịt, nếu lớp mỡ mỏng và lỏng lẻo nên tránh. Thông thường lợn siêu nạc được ăn hóa chất nên lớp mỡ mỏng hẳn đi, có khi dày chưa đến 1cm, trong khi lớp mỡ của thịt lợn bình thường khoảng 1,5-2cm.

     2. Nhìn màu sắc: Thịt lợn có chứa các độc chất ractopamine và clenbuterol thường có màu đỏ tươi khác thường, sáng và bóng.

     3. Thái miếng thịt ra từng đoạn dày bằng 2-3 ngón tay, nếu thấy thịt mềm, không đứng thẳng được trên bàn rất có thể thịt đã nhiễm chất tăng trọng.

     4. Quan sát xem chỗ liên kết giữa phần nạc và mỡ, nếu thấy tách rời rõ rệt, đồng thời có nước dịch màu vàng rỉ ra, chắc chắn đó là thịt siêu nạc.

Theo Gia đình

Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

than hoạt tính

Than hoạt tính có nguồn gốc hữu cơ, phở biến là than hoạt tính dùng trong xử lý nước và nước thải được làm từ than đá (bituminous hoặc anthracite) và vỏ dừa. Carbon được hình thành khi các nguồn hữu cơ bị đốt cháy và còn lại khoảng 30% khối lượng ban đầu. Vật liệu carbon này phải tiếp tục được xử lý hoặc kích hoạt trước khi đem vào sử dụng trong công nghệ xử lý nước, mục đích là để tạo ra một số lượng lớn các lỗ trên vật liệu lọc. Cấu trúc lỗ là rất quan trọng, vì nó thể hiện diện tích bề mặt hấp thụ chất ô nhiễm của vật liệu lọc. Kích hoạt than hoạt tính có thể được thực hiện theo hai cách sau:

- Kích hoạt bằng hơi nước: việc kích hoạt được thực hiện ở nhiệt độ cao 800 - 1000 ° C dưới sự có mặt của hơi nước. Ban đầu, khí hóa của vật liệu carbon với hơi nước xảy ra một phản ứng gọi là phản ứng nước - khí. Không khí được thêm vào để đốt cháy khí mà không cần đốt cháy carbon, sau đó than hoạt tính được sàng lọc và phân loại. Than hoạt tính được sản xuất bằng cách kích hoạt hơi nước nói chung thể hiện một cấu trúc lỗ lọc tốt, lý tưởng cho việc hấp thụ các hợp chất từ pha lỏng và pha hơi.

- Kích hoạt bằng hóa chất: các nguyên liệu được ngâm tẩm với một tác nhân khử mạnh như axit phosphoric (P2O5) hoặc kẽm Clorua (ZnCl2) thành một hỗn hợp bột nhão và sau đó đun nóng đến nhiệt độ của 500 - 800 ° C để kích hoạt carbon. Than hoạt tính được sản xuất bằng cách kích hoạt Carbon sử dụng hóa chất nói chung thể hiện một cấu trúc mở cho lỗ lọc, lý tưởng cho việc hấp thụ các phân tử lớn.

Than hoạt tính cơ bản được sử dụng cho hai mục đích xử lý nước là nước sạch và nước thải, mỗi công trình sẽ được thực hiện theo các cách khác nhau

- Loại bỏ Clo: quá trình này yêu cầu một diện tích bề mặt lớn cũng như mức độ chất hữu cơ trong nước, tránh trường hợp than hoạt tính sẽ hấp phụ các chất hữu cơ này và không còn tác dụng cho việc hấp phụ Clo dư nữa, dẫn đến việc mất dần khả năng khử carbon và sự cần thiết phải thay thế than hoạt tính mới. Than hoạt tính có thể được tái kích hoạt nhiều lần, tuy nhiên điều này chỉ nên thực hiện và sử dụng trong trong các xử lý nước thải. Việc khử Clo diễn ra nhanh với lưu lượng lớn. Lợi thế của việc sử dụng than hoạt tính trong khử Clo có chi phí vận hành thấp, tuy nhiên có một bất lợi là khi than hoạt tính được lấy ra, các chất hữu cơ có trên than hoạt tính trong môi trường ẩm ướt sẽ là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển, đây là một vấn đề đáng quan tâm khi sử dụng than hoạt tính trong các ứng dụng y tế hoặc sử dụng trong tiền xử lý cho quá trình thẩm thấu ngược.

- Loại bỏ chất hữu cơ: loại bỏ các chất hữu cơ bằng cách hút và giữ các chất hữu cơ nhất định ( gọi là quá trình hấp phụ ) và cho nước đi qua nó. Quá trình hấp phụ phụ thuộc vào các yếu tố sau: tính chất vật lý của THT( diện tích bề mặt và phân bố kích thước lỗ lọc ), tính chất hóa học của nguồn Carbon hoặc số lượng Oxy va Hydro liên kết với nó, thành phần hóa chất và nồng độ các chất gây ô nhiễm, nhiệt độ và pH của nước, tốc độ dòng chảy và thời gian tiếp xúc của nước với thanh hoạt tính, và một số yếu tố khác.

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2012

Cần phân biệt khả năng gây hại của phẩm màu trong thực phẩm

     Gần đây trên thế giới lại có những nghiên cứu về phẩm màu gây lo ngại trong dư luận: sử dụng phẩm màu trong thực phẩm gây nhiều bệnh như: ung thư, đột biến gen và sự hiếu động quá mức của trẻ em. Tuy nhiên bác sĩ Huỳnh Văn Tú, Trưởng khoa dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm - Viện Y tế cộng đồng khẳng định: “Đó chỉ là những nghiên cứu riêng lẻ chưa đủ sức thuyết phục. Không phải là công bố chính thức của Ủy ban chuyên môn về phụ gia thực phẩm (JECFA) thuộc FAO (Tổ chức lương thực thế giới). Do đó, đối với những thông tin đa chiều đòi hỏi người tiêu dùng phải có kiến thức đúng về phẩm màu thực phẩm.

     Mức độ an toàn của phẩm màu thực phẩm

     Phẩm màu được xếp vào các chất phụ gia. Tuy là những chất không có giá trị dinh dưỡng, không cần thiết trong thực phẩm, nhưng nó lại góp phần làm tăng tính hấp dẫn của thực phẩm. Phẩm màu được chia làm hai loại chính, phẩm màu tự nhiên và phẩm màu tổng hợp. Phẩm màu tự nhiên được chiết xuất từ hoa củ quả như gấc (màu đỏ), nghệ (màu vàng), lá dứa (màu xanh)…; phẩm màu tổng hợp là các phẩm màu được tạo ra bằng các phản ứng hóa học tổng hợp.

     Có rất nhiều chất phẩm màu nhưng chỉ có những chất ít độc hại dễ loại thải ra ngoài cơ thể người và không bị biến chất trong quá trình chế biến, không lẫn các tạp chất độc hại mới được sử dụng trong chế biến. Những phẩm màu nằm trong danh mục được lưu hành ở thị trường trong trong nước mà Bộ Y tế ban hành (quyết định 3742) đều dựa trên những phẩm màu được JECFA cho phép gồm 35 chất phẩm màu trong đó có 16 phẩm màu tổng hợp: xanh lục bền, đỏ Allura, xanh Brillan FCF…

     Vậy những phẩm màu đang lưu hành trên thị trường bấy lâu nay đang sử dụng và tiếp tục sử dụng có ảnh hưởng như thế nào đối với sức khỏe của người tiêu dùng? Dựa trên những thí nghiệm ở động vật và một số quan sát trên người, nhiều nhà khoa học kết luận một số phẩm màu đang được lưu hành có khả năng gây bệnh cho người. Tuy nhiên, những thí nghiệm đó chưa được đánh giá nhiều chiều, chỉ là những cảnh báo ban đầu.

     Ông Tú cho biết, có một số nghiên cứu trên động vật cho thấy chất Brillan Blue gây nên khối u não ở chuột; chất đỏ Amaranth gây nên khối u bàng quang. Trước tình hình đó, JECFA đã tiến hành nghiên cứu, tiêm chất đỏ Amaranth liều lượng 1.200g/ngày vào chuột đang mang thai, sau đó tiếp tục tiêm thuốc cho chuột con trong 2 năm. Chuột con không có dấu hiệu bị ung thư. Với thời gian đó đủ để cho thấy chất này không gây ung thư ở người nhưng với hàm lượng cho phép 0,5 miligam/kg sản phẩm /1 ngày. JECFA đã thiết lập mức giới hạn pháp lý đối với các chất có khả năng gây ung thư có trong phẩm màu. Mức giới hạn đó người ta tính toán rất phức tạp và làm thế nào khi được sử dụng trong thực phẩm tính bình quân 1 triệu người sử dụng không quá một người bị ung thư thì những chất đó được xem là an toàn. Chúng ta có thể yên tâm về những danh mục phẩm màu được phép lưu thông của JECFA hay của chính mỗi nước. Một số nghiên cứu cho thấy chất tạo màu đỏ Poneau 4R có khả năng gây một số xáo động đối với hợp chất di truyền. Tuy nhiên đây chỉ là những bước đầu khảo sát trên động vật, phải cần rất nhiều thông tin, khảo sát nữa trên người mới có thể kết luận phẩm màu đó có gây đột biến gen hay không. Cũng như có nghiên cứu cho rằng: trẻ em khi ăn thực phẩm có phẩm màu (như màu đỏ Allura AC) dẫn tới hiếu động quá mức. Thế nhưng liệu có mối liên hệ nào hay chăng giữa phẩm màu và sự hiếu động quá mức của trẻ em? Những nghiên cứu trên chưa được JECFA chấp nhận chưa đủ thuyết phục để JECFA ra thông báo nghiêm cấm sử dụng.

     Được biết JECFA là một tổ chức thuộc FAO, là ủy ban chuyên rà soát mức độ an toàn của phụ gia nói chung và phẩm màu nói riêng. Những phẩm màu muốn được lưu thông trên mỗi nước phải thông qua JECFA. Đến nay ủy ban này đã công bố hơn 1.500 chất phụ gia và 90 dư lượng thuốc thú y trong chăn nuôi được phép hiện diện trong thực phẩm của người. Những chất được phép lưu hành đều phải đạt ba tiêu chuẩn: quy trình sản xuất bảo đảm an toàn; tuân thủ tất cả các điều kiện quy định của cơ quan quản lý; về mặt khoa học đã được tiến hành nghiên cứu trên động vật, và một số đối tượng sử dụng cho thấy đến bây giờ vẫn an toàn.

     Hãy là người tiêu dùng am hiểu

     Theo Tiến sĩ Phan Thế Đồng, Trưởng khoa Công nghệ Thực phẩm, Trường Đại học Nông Lâm, phẩm màu tự nhiên trong chế biến có lợi cho sức khỏe hơn phẩm màu tổng hợp, nhưng các nhà sản xuất có xu hướng sử dụng phẩm màu tổng hợp vì nhóm phẩm màu có nguồn gốc tự nhiên dễ bay màu, dùng với số lượng lớn giá thành cao. Trong khi phẩm màu tổng hợp sử dụng trong thực phẩm lâu phai tươi tắn dễ sử dụng hơn phẩm màu tự nhiên và chỉ với một lượng nhỏ đã cho màu đúng nhu cầu người sử dụng.

     Phẩm màu tự nhiên có màu nhạt, thời gian giữ màu không lâu.(Ảnh chỉ có tính minh họa)Bà Trương Thị Ánh, ngụ tại 1-2/C1, khu phố 6, phường Linh Trung, quận Thủ Đức (thành phố Hồ Chí Minh) cho biết, vẫn biết việc sử dụng màu tự nhiên trong chế biến thực phẩm an toàn hơn, nhưng phải bỏ nhiều công sức. Chẳng hạn nấu xôi gấc phải tốn nhiều thời gian để tạo màu từ quả gấc trong khi đó chỉ vài phút ra ngoài cửa hàng tạp hóa và chỉ vài ngàn đồng đã có thể mua được phẩm màu tạo màu ưng ý như màu của gấc. Tuy nhiên, cũng không an tâm vì hầu hết các phẩm màu được bán ở hàng tạp hóa không có bao bì nhãn hiệu, không rõ xuất xứ từ đâu, có an toàn hay không?

     Cũng theo ông Đồng, khó có thực phẩm nào hiện nay không có màu và khi nhìn thấy màu trong thực phẩm không thể phân biệt được đó là màu tự nhiên hay phẩm màu tổng hợp. Chỉ có thể phân tích để kết luận đó là loại nào khi đưa vào phòng thí nghiệm, ngay cả những nhà nghiên cứu bằng mắt thường không thể phân biệt được. Hiện các nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng có xu hướng sử dụng màu tự nhiên trong chế biến sản phẩm nhưng phải mất một thời gian dài mới có thể đáp ứng được nhu cầu đó. Chúng ta vẫn cứ phải chấp nhận sử dụng phẩm màu tổng hợp. Và trước tình trạng phẩm màu thực phẩm được bày bán tràn lan, không bao bì nhãn mắc, không rõ nguồn gốc xuất xứ ở các chợ, các hàng tạp hóa nhỏ lẻ, người tiêu dùng nên sử dụng những sản phẩm của các doanh nghiệp có đăng ký chất lượng in trên bao bì với các chỉ dẫn cụ thể về liều lượng cho phép, phù hợp khi chế biến những thực phẩm nào….

     Không nên sử dụng phẩm màu đó liên tục và nên uống nhiều nước khi ăn sản phẩm có phẩm màu. Còn đối với những sản phẩm truyền thống như bánh ít, bánh phu thê, mứt gừng…không có bao bì, người tiêu dùng nên cân nhắc khi mua và tránh mua những sản phẩm có màu quá sặc sỡ vì chắc chắn nếu màu quá sặc sỡ sản phẩm đó đã sử dụng phẩm màu quá liều lượng cho phép.

     “Không phải phẩm màu thực phẩm tổng hợp nào cũng độc hại nhất là những phẩm màu đã được Bộ y tế cho phép sử dụng trên thị trường. Do đó, người tiêu dùng nên giữ thái độ bình tĩnh khi có thông tin chất phẩm màu độc hại…. Đó chỉ là những thông tin trái chiều chưa được đánh giá thông qua một tổ chức uy tín nào. Khi có thông tin chính xác chắc chắn các cơ quan quản lý sẽ ra khuyến cáo” - ông Huỳnh Văn Tú chia sẻ./.

Theo TTXVN

Điều cần biết về thực phẩm chức năng

Thực phẩm chức năng là gì?
     Một số các văn bản của Bộ Y tế đều thống nhất khái niệm. “Thực phẩm chức năng là thực phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của các bộ phận trong cơ thể người, có tác dụng dinh dưỡng, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng và giảm bớt nguy cơ bệnh tật”. Theo khái niệm này thì thực phẩm chức năng nằm giữa giới hạn thực phẩm truyền thống và thuốc. Vì thế, người ta còn gọi thực phẩm chức năng là thực phẩm – thuốc.
     Điểm khác nhau giữa thực phẩm chức năng và thực phẩm truyền thống: Thực phẩm chức năng được sản xuất chế biến theo công thức bổ sung một số thành phần có lợi và loại bớt một số thành phần bất lợi. Việc bổ sung hay giảm bớt phải được chứng minh và cân nhắc một cách khoa học, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Thực phẩm chức năng có tác dụng với sức khỏe nhiều hơn là các chất dinh dưỡng thông thường. Nó rất ít tạo ra năng lượng như các loại thực phẩm truyền thống. Liều sử dụng thực phẩm chức năng thường nhỏ, chỉ vài miligam như là thuốc.
      Điểm khác nhau giữa thực phẩm chức năng và thuốc: Thực phẩm chức năng được nhà sản xuất ghi trên nhãn là thực phẩm, thuốc được công bố là sản phẩm thuốc có tác dụng chữa bệnh.
Vai trò của thực phẩm chức năng
     Theo bản chất cấu tạo và tác dụng của thực phẩm chức năng mà người ta chia ra thành các nhóm như:
     Nhóm thứ nhất: Có tác dụng chống oxy hóa như vitamin C, E, Betacaroten, kẽm vi lượng, các sản phẩm từ hạt nho… Nhóm này có tác dụng giúp cho cơ thể phá hủy các gốc tự do, các tác nhân oxy hóa, nâng cao sức khỏe, phòng chống bệnh tật. 
     Trên 100 chứng bệnh có nguyên nhân sâu xa từ sự mất cân bằng giữa các yếu tố tấn công và bảo vệ của hệ thống oxy hóa trong cơ thể. Tác động mạnh mẽ của các gốc tự do nguồn gốc oxy là các bệnh viêm nhiễm, bệnh phỏng, vết thương lâu lành, bệnh tim mạch… Đây là nhóm chiếm số lượng lớn được sử dụng khá rộng rãi trong cộng đồng.
     imageNhóm thứ hai: Là nhóm sản phẩm có tác dụng như thay thế bổ sung các nội tiết cả ở nam lẫn nữ. Chúng có tác dụng là tăng sinh lực ở đàn ông. Ở nữ giới, các sản phẩm này có tác dụng hạn chế tối đa các triệu chứng bất lợi về thần kinh, xương khớp… nhất là tăng cường hóc-môn nữ ở những phụ nữ có tuổi, giúp họ sống vui hơn, khỏe hơn, kéo dài tuổi thanh xuân.
      Nhóm thứ ba: Sản phẩm mang tính thích nghi sinh học như các loại sâm, đông trùng hạ thảo, sữa ong chúa… có tác dụng tăng cường sức khỏe, tăng sức đề kháng…
     Nhóm thứ tư: Có tác dụng tăng cường chính khí, tăng cường miễn dịch, phòng chống ung thư… Như các sản phẩm có nguồn gốc từ cúc nhím của Mỹ, sụn và dầu gan cá mập, nấm linh chi, xạ đen, xạ linh…
     Nhóm thứ năm: Nhóm sản phẩm có tác động lên hệ thần kinh, chống stress như cây kawa, nữ lang…
     Nhóm thứ sáu: Là các vitamin, axit amin, các nguyên tố vi lượng…
Xu thế và vị thế
     Mục tiêu cuối cùng của y học là phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng, nâng cao sức khỏe, sống khỏe sống hạnh phúc và sống lâu. Muốn giải quyết được 5 mục tiêu nói trên chúng ta phải ứng dụng một cách hài hòa, hiệu quả của một loạt các biện pháp, từ cổ truyền đến hiện đại, từ tâm lý đến tâm linh, từ liệu dưỡng đến liệu trị… Các tác dụng của thực phẩm chức năng đều có thể đáp ứng được 5 mục tiêu nói trên.  
    Vì thế, vai trò và vị thế của thực phẩm chức năng sẽ ngày càng được nâng cao trong đời sống xã hội. Thế nhưng phương pháp dù hiện đại đến đâu cũng vẫn có hạn chế riêng của nó. Khi đã để bệnh phát sinh rồi mới chữa thì vô cùng tốn kém, có khi đã là quá muộn.  
     Nếu chủ động phòng bệnh bài bản, khoa học, kiên trì thì sẽ đạt được hiệu quả tốt. Tuy nhiên, có một số lưu ý là khi sử dụng sản phẩm nào, người tiêu dùng nên chọn lựa kỹ càng nguồn gốc sản xuất và nhất thiết phải được sự chỉ dẫn của các nhà chuyên môn.